Xu Hướng Ứng Dụng Xạ Trị Trong Điều Trị Ung Thư Trên Thế Giới
Trong xạ trị việc cung cấp liều đủ lớn để tiêu diệt khối u, một mặt giảm liều chiếu xạ lên cơ quan lành để giảm các biến chứng không mong muốn là mục tiêu quan trọng nhất

Trong xạ trị việc cung cấp liều đủ lớn để tiêu diệt khối u, một mặt giảm liều chiếu xạ lên cơ quan lành để giảm các biến chứng không mong muốn là mục tiêu quan trọng nhất. Trong hai thập kỷ qua, khả năng đạt được mục tiêu này đã được cải thiện rất nhiều nhờ vào các tiến bộ trong công nghệ máy gia tốc, hình ảnh y học và công nghệ máy tính. Các thế hệ máy gia tốc được trang bị bộ chuẩn trực đa lá MLC, hệ thống  portfilm bằng tía X năng lượng KV, cone beam CT giúp xác định chính xác vị trí và thời điểu chiếu xạ phù hợp. Hệ thống CT mô phỏng 3D và 4D, Hệ thống cộng hưởng từ (MRI), Hệ thống chụp cắt lớp positron PET / CT cho phép xác định chính xác hơn vị trí, hình dạng và kích thướng khối u và cơ quan lành. Hệ thống lập kế hoạch xạ trị hiện đại với các thuật toán tính liều thông minh như Monte Carlo cho phép đạt được kế hoạch xạ trị tối ưu nhất. Cho nên ngày nay rất nhiều kỹ thuật xạ trị hiện đại được phát triển đã và đang mang lại những kết quả tốt trong điều trị xạ trị ung thư. 

Các kỹ thuật xạ trị hiện đại đang được áp dụng hiện nay là: IMRT, VMAT, IGRT, SBRT, SRS 



máy gia tốc Elekta Versa HD tại bệnh viện chợ rẫy cho phép thực hiện các kỹ thuật IMRT, IGRT, VMAT, SBRT

Kỹ thuật IMRT. Kỹ thuật xạ trị điều biến cường độ IMRT là một trong những phương pháp xạ trị tiên tiến với độ chính xác cao hơn các kỹ thuật xạ trị 3D và 3D-CRT. IMRT cho phép phân bố liều phù hợp với hình dạng của khối u và giảm liều chiếu xạ lên các cơ quan trọng yếu bằng cách điều biến cường độ trong các trường chiếu nhỏ. Hiện nay IMRT được sử rộng rải để điều trị các loại ung thư như tuyến tiền liệt, trực tràng, đầu mặt cổ và hệ thần kinh trung ương.

Kỹ thuật IGRT: Phương pháp xạ trị hướng dẫn bằng hình ảnh (IGRT) là sử dụng hình ảnh trong quá trình xạ trị để nâng cao độ chính xác của việc điều trị. IGRT được sử dụng để điều trị các khối u ở các vùng cơ thể di động, chẳng hạn như phổi. Các máy xạ trị được trang bị công nghệ hình ảnh để cho phép bác sĩ chụp hình khối u trước và trong khi điều trị. Bằng cách so sánh những hình ảnh này với các hình ảnh tham khảo được chụp trong quá trình mô phỏng, qua đó kiểm soát được chuyển động của khối u và chiếu xạ chính xác vào khối u, kế cả những khối u nằm ở vùng cơ thể chuyển động. Có thể thấy IGRT cho phép nhắm trúng đích hơn kỹ thuật IMRT.

1.    Kỹ thuật SRS: Phẫu thuật bằng tia xạ là một kỹ thuật sử dụng chùm bức xạ ngoài, hội tụ các chùm tia phóng xạ để tiêu diệt các khối u nhỏ trong não hoặc các cơ quan khác bao gồm phổi, cột sống, gan, thận và xương. Độ chính xác từ 1 đến 2 mm, nên kỹ thuật này cho phép bảo vệ  tốt các mô lành xung quanh hơn so với các phương pháp xạ trị khác. Đối với nhiều loại khối u, tỷ lệ kiểm soát bệnh được điều trị bằng phẫu thuật này có thể tương đương với phẫu thuật cắt bỏ, cho nên phương pháp này có thể thay thế một số kỹ thuật xâm lấn khác.

2.    Kỹ thuật SBRT: Là kỹ thuật điều trị không xâm lấn tương tự như SRS, đây là một trong những kỹ thuật tốt nhất để điều trị các ung thư phổi, tuyến tiền liệt, đầu mặt cổ, ung thư gan, và những ung thư khác ngoài hệ thần kinh trung ương. Mục tiêu của SBRT là tăng liều chiếu xạ đến khối u giúp tăng kiểm soát bệnh, trong khi liều tại các cơ quan trọng yếu vẫn đạt dưới ngưỡng cho phép. Do khối u bị dịch chuyển bởi hô hấp hoặc các thay đổi khác trong cơ thể, cho nên cần có hệ thống ghi nhận hình ảnh liên tục trong quá trình điều trị, giúp chiếu xạ chính xác vào khôi u.

3.    Kỹ thuật VMAT: Là kỹ thuật xạ trị tiên tiến phát triển từ kỹ thuật IMRT, không giống như kỹ thuật IMRT thông thường, trong quá trình điều trị hệ thống chỉ phát tia bức xạ ở những góc trường chiếu cố định, đối với VMAT quá trình phát tia bức điều trị có thể thực hiện lên tục trong quá trình máy quay một cung tròn 360 độ. Kỹ thuật này giúp rút ngắn thời gian điều trị xuống từ 8 đến 12 phút so với kỹ thuật IMRT thông thường


Các Tin Khác